Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

Ngân hàng Habubank - Ngân hàng "vòi tiền" khi doanh nghiệp vay vốn?

Hội nhập WTO- một trang mới cho sự phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam. Với tư cách là một thành viên của WTO, Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức vô cùng to lớn. Các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn ở Việt Nam có dịp được bước chân vào thị trường thế giới, thị trường chỉ dành cho những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh lớn mạnh. Chính vì thế muốn tồn tại, các doanh nghiệp cũng như các tập đoàn cần phải nỗ lực phát triển nâng cao năng lực kinh doanh của mình để có thể đứng vững trên trường quốc tế này. Ngành Tài chính - Ngân hàng cũng không nằm ngoài những mục tiêu chung đó.

  Hội nhập trong những năm vừa qua đã giúp ngành Tài chính - Ngân hàng  có nhiều những phát triển vượt bậc, góp phần vào sự tăng trưởng chung của Việt Nam chúng ta. Hội nhập đã khuyến khích xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh, các hoạt động này lại kéo theo sự phát triển của dịch vụ Thanh toán, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ ngoại hối.. tại các Ngân hàng. Để có thể đứng vững và vượt qua các thử thách một cách dễ dàng, các ngân hàng thương mại cần phải chuẩn bị cho mình một tiềm lực về kinh tế, về uy tín cung ứng dịch vụ nhằm cạnh tranh được với các ngân hàng trên thế giới.
  Không nằm ngoài xu thế chung đó, ngân hàng Habubank nói chung cũng như Habubank - Chi nhánh Hoàng Quốc Việt nói riêng luôn phấn đấu để đạt được những mục tiêu ổn định, tiếp tục phát triển bền vững nâng cao vị thế của mình trên thị trường Tài chính Ngân hàng. Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, ngân hàng Habubank đã trở thành một ngân hàng với bề dày kinh nghiệm, tiềm lực con người dồi dào và tiềm lực tài chính ngày một vững mạnh. Habubank luôn sẵn sàng tự hoàn thiện mình và chuẩn bị đầy đủ hành trang nỗ lực đổi mới và phấn đấu không ngừng để vươn lên góp phần phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
  Trong những năm qua, Habubank- Chi nhánh Hoàng Quốc Việt với những nỗ lực cung ứng dịch vụ chất lượng cao đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đóng góp cho sự phát triển của toàn ngân hàng Habubank nói riêng và cho nền tài chính Việt Nam nói chung. Các mảng hoạt động đều có sự tăng trưởng hết sức khả quan và khởi sắc hơn cả là các hoạt động ở các mảng dịch vụ. Tuy nhiên để có thể duy trì được vị thế của mình, ngân hàng Habubank cần phải tăng cường phát triển các dịch vụ trong hoạt động ngân hàng Doanh nghiệp như dịch vụ Bảo lãnh, tín dụng, Thanh toán quốc tế...
Vì mối quan hệ cộng sinh, nhiều doanh nghiệp không dám tố, nhưng bị “đường cùng” đã có doanh nghiệp hé lộ chuyện “lót tay”. Sự việc tại Chi nhánh Bắc Giang – Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam là một trong nhiều ví dụ.

Khoản chi không tên


Chuyện một số cá nhân của ngân hàng vòi vĩnh đòi “lót tay” khi doanh nghiệp đến vay vốn không phải là mới. Tuy nhiên, gần đây khá nhiều doanh nghiệp tiếp tục than phiền hiện tượng này.

Trong khi doanh nghiệp đang phải đối đầu với tình hình hoạt động sản xuất đình trệ, hàng tồn kho cao, cung giảm, đặc biệt là tín dụng cũng đang thắt chặt, thì doanh nghiệp lại phải ấm ức với nỗi niềm khó tỏ cùng ai khi phải mất thêm những khoản tiền “lót tay” để vay được vốn.

Mới đây, giám đốc một doanh nghiệp đã từng thổ lộ, công ty cần vay một khoản tiền tỷ để đầu tư sản xuất kinh doanh, với hồ sơ vay vốn đáp ứng đủ mọi điều kiện mà ngân hàng đưa ra. Tuy nhiên, thay vì được vay với lãi suất đang được Ngân hàng Nhà nước công bố thì doanh nghiệp vẫn phải vay với lãi suất là 19%/năm.

Thậm chí, nhân viên của ngân hàng này còn tỏ thái độ “này nọ” để doanh nghiệp phải có khoản tiền bồi dưỡng cám ơn.

Rất bức xúc nhưng vì “miếng cơm manh áo” trong thời buổi đói vốn hàng loạt, vị giám đốc này phải chấp nhận trong ấm ức. “ Lãi suất đầu vào đang chỉ có 9%/năm, vậy mà ngân hàng cho doanh nghiệp vay với lãi suất 19%/năm. Hưởng chênh lệch tới 10% là quá lớn, doanh nghiệp có kiếm được tiền thì cũng chả còn lãi là bao, vì chi phí đi vay (cả khoản trên giấy tờ lẫn khoản “lót tay” chả ai biết) quá lớn…” vị giám đốc than thở.

Cũng vì mối quan hệ cộng sinh với ngân hàng, "sống chết cũng phải có nhau",  nên vị giám đốc này xin được không đưa công khai tên ngân hàng đã gây khó dễ cho doanh nghiệp.

Đề cập đến vấn đề này, một cán bộ thuộc ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) cho biết, mỗi ngân hàng đều có điều kiện vay vốn khác nhau phù hợp với thực lực của ngân hàng đó và mức lãi suất cho doanh nghiệp vay cũng dựa trên độ mạnh yếu của ngân hàng. Dù NHNN có khuyến khích các ngân hàng cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp, nhưng nếu ngân hàng yếu thanh khoản, nợ xấu quá lớn thì khó đáp ứng được.

Đối với việc vòi vĩnh đòi chi “lót tay”, cán bộ một ngân hàng khác khẳng định, nếu không có bằng chứng cụ thể thì khó xác minh được.

Tố vì “đường cùng”

Vụ việc xảy ra tại chi nhánh Chi nhánh Bắc Giang – Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank Bắc Giang) là một ví dụ khi "đường cùng" doanh nghiệp đã tố ngân hàng "vòi tiền" doanh nghiệp.

Chiều ngày 9/8, trao đổi với VnMedia và một số cơ quan báo chí khác, bà Phạm Tuyết Mai, Trưởng phòng Kiểm tra giám sát tuân thủ, Ngân hàng Vietcombank đã tường trình lại vụ việc và khẳng định đây là trường hợp hy hữu xảy ra trong hệ thống ngân hàng Vietcombank từ trước cho tới nay.

Cụ thể, ngày 28/12/2011, Công ty TNHH Một thành viên Phương Lan (Công ty) và Vietcombank Bắc Giang, do ông Phạm Quang Thức – Giám đốc đã ký hợp đồng tín dụng hạn mức số 054/2011/HMBG (HĐ 54), số tiền là 10 tỷ đồng, với hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản, thời hạn vay 6 tháng. Ngày 30/12/2011, Vietcombank Bắc Giang đã giải ngân cho Công ty số tiền 4,9 tỷ.

Tiếp đến và đến ngày 9/1/2012 phía Công ty đã có văn bản đề nghị Vietcombank Bắc Giang tiếp tục giải ngân theo HĐ 54 nhưng đã bị từ chối (sự việc này VnMedia sẽ đề cập ở bài sau).

Trong  công văn (CV) số 0412/CV-PL ngày 18/4/2012 gửi Vietcombank, Công ty có nêu rõ việc vay vốn thế chấp tài sản với Vietcombank Bắc Giang đã có sự cam kết, nhất là phía ngân hàng phải đảm bảo nguồn vốn tránh các thiệt hại cho Công ty như hiện tại. Và việc ông Phạm Quang Thức đang gây khó dễ cho doanh nghiệp, từ chối không cấp đủ vốn như trong HHD 54 đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến các mối quan hệ của Công ty.

Hơn thế, việc Công ty do nguồn vốn không đảm bảo đã dẫn đến việc vi phạm một số Hợp đồng kinh tế đã ký trước đó, ảnh hưởng trực tiếp đến việc kinh doanh, đẩy Công ty vào tình trạng khủng khoảng không doanh thu, nợ lương nhân viên, chưa kể việc đền bù các HĐ đã ký và mất khả năng thanh toán với Ngân hàng.

Trước đó, theo bà Lương Thị Lan Anh, Công ty TNHH Một thành viên Phương Lan, trong quá trình chuẩn bị hồ sơ vay vốn lãnh đạo và các cán bộ tín dụng chi nhánh này đã nhiều lần liên hệ, gọi điện thoại yêu cầu phải chi “lót tay” để bồi dưỡng, sớm được giải ngân số tiền trên.

Phía Công ty đã đồng ý chi 40 triệu cho ông Thức và 20 triệu cho các cán bộ Ngân hàng để bồi dưỡng, cám ơn việc đã giúp Công ty ký hợp đồng và giải ngân số tiền 4,9 tỷ đồng.

Sau khi sự việc này được phản ánh lên Hội sở Ngân hàng Vietcombank, bà Phạm Tuyết Mai, Trưởng phòng kiểm tra giám sát tuân thủ đã có CV số 708/VCB.KTGSTT trả lời phía Công ty, trong đó có yêu cầu: “Để làm rõ và có cơ sở xem xét, xử lý hành vi tiêu cực của Giám đốc Chi nhánh Bắc Giang và các cán bộ có liên quan, chúng tôi đề nghị bà cung cấp bằng chứng xác thực”.

Cũng trong buổi làm việc chiều ngày 9/8, bà Mai cho biết, ông Thức đã có bản tường trình lại vụ việc này, trong đó khẳng định có nhận được phong bì và quà của doanh nghiệp nhưng khi không có mặt tại cơ quan, không biết phong bì có bao nhiêu tiền và sau đó ông cũng đã chuyển sang phòng hành chính nhân sự để cho vào quỹ của công đoàn làm công tác tri ân khách hàng!?. Cũng theo bà Mai, lãnh đạo Vietcombank đang xem xét và sẽ sớm có kết luận về vụ việc này. 

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

Bắc Ninh đánh giá kết quả thực hiện Nghị định 41

Vừa qua, UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, mục tiêu, giải pháp năm 2012 và giai đoạn 2013-2015. 


                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>

Theo báo cáo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Bắc Ninh, sau 2 năm thực hiện Nghị định 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ, Agribank Bắc Ninh đã chủ động thực thi nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả và đạt được những kết quả quan trọng, khẳng định vai trò, vị thế đối với sự nghiệp phát triển “Tam nông” của tỉnh. Đến hết tháng 6/2012, tổng nguồn vốn (cả ngoại tệ quy đổi VNĐ) của Agribank Bắc Ninh đạt 3.819 tỷ đồng, tăng 42% so với cuối tháng 6/2010 (thời điểm bắt đầu triển khai Nghị định 41); Tổng dư nợ cho vay đạt 4.373 tỷ đồng, tăng 1.074 tỷ đồng so với cuối tháng 6/2010, tốc độ tăng trưởng 33%. Từ khi triển khai Nghị định 41 đến nay, Agribank Bắc Ninh đã cho vay hơn 50.300 lượt khách hàng với doanh số hơn 13.500 tỷ đồng, đến nay tổng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 3.366 tỷ đồng, tăng 288 tỷ đồng so với cuối năm 2011, tốc độ tăng 9%, chiếm 77% tổng dư nợ. Thực hiện chương trình đầu tư cho xây dựng nông thôn mới, Agribank Bắc Ninh đã đầu tư cho 8 xã điểm với doanh số 300 tỷ đồng; Dư nợ cho vay qua tổ, nhóm gần 84 tỷ đồng với gần 800 tổ vay vốn… Hiệu quả của nguồn vốn Agribank đem lại đã góp phần vào sự phát triển vượt bậc của lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn, đưa cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn của Bắc Ninh từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, cải thiện và nâng cao đời sống của nông dân, góp phần đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại.
Thời gian tới, Agribank Bắc Ninh tiếp tục chiếm lĩnh thị phần và giữ vai trò chủ lực trong đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn, phấn đấu đến cuối năm 2012 dư nợ cho lĩnh vực này lên tới 80% tổng dư nợ và 85% vào cuối năm 2015. Agribank Bắc Ninh sẽ tiếp tục củng cố và phát triển hoạt động cho vay qua tổ, nhóm tín chấp giữa Agribank với Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, đưa số dư nợ cho vay qua tổ, nhóm đạt từ 8-10% tổng dư nợ. Thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn tại địa phương; Mở rộng đối tượng cho vay, phương thức cho vay nhằm đa dạng hoá khách hàng… Đồng thời, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước về chính sách tiền tệ, tín dụng, góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương.
Đại diện lãnh đạo UBND tỉnh Bắc Ninh đã ghi nhận và biểu dương những kết quả mà Agribank Bắc Ninh đã đạt được trong việc triển khai thực hiện Nghị định 41 của Chính phủ, đồng thời yêu cầu đơn vị tiếp tục tập trung nguồn vốn phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường huy động vốn, mở rộng đầu tư tín dụng, đa dạng hoá các khách hàng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các khách hàng vay vốn về quy trình, thủ tục, hồ sơ… nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân, kết hợp với các giải pháp về tín dụng, giảm lãi suất theo tinh thần chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước nhằm tháo gỡ, chia sẻ khó khăn cho khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đồng thời, yêu cầu các cấp, ngành trong tỉnh tăng cường chỉ đạo thực hiện hiệu quả Nghị định 41 trên địa bàn, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm nhằm tăng cường nguồn lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong đó cần tiếp tục phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến Nghị định 41, tăng cường phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các sở, ngành chức năng, các tổ chức đoàn thể với ngân hàng, giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc nhằm tạo thuận lợi cho mọi người dân được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng, hướng dẫn người dân vay vốn, sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả, góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh.

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Doanh nghiệp - ngân hàng: Tìm lời giải cho sự “bất đồng”

 
Các ngân hàng cho rằng, lộ trình giảm lãi suất đã nhanh, DN lại nói còn rất chậm. Đó là sự “bất đồng quan điểm” tại hầu hết cuộc đối thoại ngân hàng - DN thời gian qua.

Bài liên quan : <<  Ngân hàng habubank vượt qua khó khăn  >>
                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>
 
Và không khí tại “Hội nghị kết nối DN - ngân hàng” diễn ra tại TP. HCM sáng ngày 28/7 cũng không phải là ngoại lệ.

DN: “Ngân hàng còn khắt khe”

Phát biểu tại Hội nghị, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình cho biết, thị trường tiền tệ đang ngày càng ổn định hơn. Mặt bằng lãi suất cho vay cũng hạ dần, đến nay xuống còn dưới 15%/năm. Các NHTM cũng đã tích cực tham gia điều chỉnh lãi suất cho vay đối với các hợp đồng tín dụng trước đây, cơ cấu lại nợ của DN. Nếu tại thời điểm 15/7, các khoản vay cũ phải giảm lãi suất xuống 15%/năm chiếm 60% trong tổng dư nợ của ngành, thì đến 27/7 chỉ còn khoảng 35%.

Tuy nhiên, đại diện Tổng công ty Bến Thành cho rằng, nhiều khoản vốn vay có lãi suất trên 18%/năm chưa được điều chỉnh và DN mong muốn tiếp cận được lãi vay 12 - 13%/năm, chứ 15%/năm vẫn còn quá cao.

Còn theo ông Nguyễn Trí Kiên, Giám đốc Công ty May túi xách Minh Tiến, vấn đề giảm lãi suất khoản vay cũ nhìn chung đã được các NHTM thực hiện khá nghiêm túc và lãi suất khoản vay cũ của DN này đã về 15%/năm. Tuy nhiên, ông Kiên cho biết: “Hiện các ngân hàng nhìn DN khắt khe đến mức DN không thể tiếp cận được vốn, chứ không hẳn là vấn đề lãi suất. Hai năm rồi, Công ty chúng tôi phát triển thêm hai phân xưởng sản xuất. Trước bối cảnh khó khăn, vừa rồi UBND TP.HCM có hỗ trợ Công ty một khoản vốn nhưng rất nhỏ; trong khi đó, DN nội địa gặp khó là hàng Trung Quốc tràn qua ngay”.

Cũng theo ông Kiên, mỗi năm Công ty cần 40 tỷ đồng để cho ra đời khoảng 400.000 sản phẩm là cặp học sinh. Nhưng nếu so với nhu cầu thực tế của thị trường 23 triệu học sinh như hiện nay thì thị phần còn rất lớn. Song cái khó nhất của Minh Tiến chính là đã cạn tài sản thế chấp để có thể vay được vốn từ ngân hàng.

Tổng giám đốc Công ty Vissan, ông Văn Đức Mười cũng cho hay, hiện các DN đang gặp khó khăn trên diện rộng: sức mua của thị trường giảm, đầu ra sản phẩm thu hẹp và áp lực lãi vay lớn… Vì thế, giảm lãi suất chỉ là một trong những điều kiện cần để DN tồn tại, phát triển.

“Ngành ngân hàng đã 4 lần giảm lãi suất cho vay. Đó là hành động quyết liệt, nhưng DN có tiếp cận được vốn rẻ không, có muốn tiếp cận vốn mở rộng kinh doanh hay không khi đầu ra khó khăn… là những câu hỏi không dễ trả lời”, ông Mười cho biết.

Ngân hàng: “Đã nỗ lực chia sẻ”

Ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Eximbank nhận định, hiện hàng tồn kho của DN lớn gấp đôi so với dư nợ ngành ngân hàng. Nợ xấu ngân hàng bắt nguồn từ sức cầu suy giảm nghiêm trọng. Tảng băng tồn đọng hàng hóa tạo nên nợ xấu, nên các DN và ngân hàng không thể làm ăn bình thường. Nếu không phá tảng băng lớn này của nền kinh tế thì DN và ngân hàng đều khó khăn. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, theo ông Phước, cả hai phải cùng chia sẻ. Ông Phước cho biết, tại Eximbank, Ngân hàng đã dành 63% tổng vốn tín dụng cho địa bàn TP. HCM, đồng thời cơ cấu, giãn nợ cho trên 630 DN với 3.863 tỷ đồng.

Ông Phước cũng cho rằng, các DN cần tránh nhầm lẫn trong thống kê: lãi suất danh nghĩa và chi phí vốn. Huy động 9%/năm và cho vay ra 15%/năm, nhiều người cho rằng, các ngân hàng được hưởng mức chênh lệch khá lớn. Song thực tế, ngoài chi phí huy động 9%/năm, còn có dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi, dự phòng chung…

Cùng chung quan điểm, Chủ tịch HĐQT Vietcombank, ông Nguyễn Hòa Bình cũng nhấn mạnh: “Ngân hàng cũng là DN, nên việc kinh doanh phải có lợi nhuận. Do đó, ngân hàng và DN phải kết nối với nhau để từng bước giải quyết khó khăn chung”.

Chỉ tính riêng tại khu vực TP. HCM, Vietcombank có khoảng 50.000 tỷ đồng phải điều chỉnh lãi suất xuống 15%/năm và hiện có khoảng 73,5% nợ vay tại Ngân hàng có lãi suất chỉ khoảng 13%/năm trở xuống. Theo Chủ tịch HĐQT Vietcombank, nghề ngân hàng là huy động vốn để cho vay, nhưng phải có trách nhiệm bảo quản tiền gửi, nên không dám hạ chuẩn cho vay.

Đại diện BIDV cho biết, Ngân hàng xác định chung tay cùng DN, nên lợi nhuận 6 tháng đầu năm của BIDV đã giảm 20% so với 2011. Điều này rất cần DN biết để cùng chia sẻ.

Trước những thắc mắc của DN, Thống đốc NHNN cho biết, cơ quan này đang theo dõi sát để đốc thúc các NHTM tiếp tục giảm lãi suất khoản vay cũ cũng như cơ cấu lại nợ. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Bình cũng cho rằng, việc yêu cầu ngân hàng đưa lãi suất khoản vay cũ xuống 15%/năm là mang tính hành chính, thể hiện sự chia sẻ với DN. Giả sử có văn bản thì cũng không có hiệu lực pháp lý đối với các khoản vay trước đây, vì đó là hợp đồng kinh tế, không hồi tố.

 “Quan điểm của NHNN là yêu cầu các NHTM cùng góp sức chia sẻ khó khăn chung của kinh tế và giúp tháo gỡ khó khăn cho DN. Bởi DN khó khăn thì ngân hàng cũng khó nên cần có sự chia sẻ lẫn nhau trong bối cảnh thị trường hiện nay”, Thống đốc nói.

Qua ý kiến của các DN thảo luận tại hội nghị, Thống đốc cho rằng, mặc dù mức lãi suất hiện nay chưa đáp ứng 100% nhu cầu DN, nhưng đã có chiều hướng giảm, nhiều DN tiếp cận lãi suất khá thấp trong thời gian này và đã được giãn nợ cũ. Khi CPI giảm, lãi suất huy động và cho vay sẽ còn giảm, nhưng khi nào xuống được 10%/năm thì chưa thể chắc chắn, dù đó là mong muốn của Chính phủ và NHNN. Trong bối cảnh hiện nay, không thể tiếp tục giảm mạnh lãi suất huy động, vì nếu lãi suất giảm, người dân sẽ không gửi tiền ngân hàng mà đầu cơ vào các kênh khác như ngoại tệ, dẫn đến nguy cơ biến động tỷ giá.

Thống đốc cho biết, đối với những đơn vị chưa được điều chỉnh lãi suất khoản vay cũ về 15%/năm, DN cần làm việc trực tiếp với ngân hàng để giải quyết. Tuy nhiên, ông Bình cho rằng, đòi hỏi ngân hàng chia sẻ, nhưng DN cũng phải nỗ lực. “Đây là lời kêu gọi, đề nghị và nhiệm vụ chính trị để các ngân hàng triển khai, chứ không phải quyết định hành chính. Vì quyền lợi của cả nền kinh tế, DN và ngân hàng phải có trách nhiệm chia sẻ với nhau”, ông Bình nói.         

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Tăng sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài tại các TCTD yếu kém tỷ lệ bao nhiêu là hợp lý?

Ngân hàng Nhà nước nên xem xét cho các ngân hàng nước ngoài có tỷ lệ khống chế vào một thời điểm thích hợp. Còn hiện nay, có thể tỷ lệ nên nâng lên là 40%.


                         <<  Ngân hàng habubank phát triển mạnh  >>
 

Theo Đề án Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của NHNN có đề xuất tăng “room” sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tín dụng yếu kém. Xoay quanh vấn đề này chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia tài chính ngân hàng.
Ông Hiếu cho rằng, với các tổ chức tín dụng yếu kém hiện nay, việc tăng vốn chủ sở hữu là tối cần thiết. Hiện có hai vấn đề mà các tổ chức tín dụng kiểu này đang đối mặt  đó là nợ xấu và tính thanh khoản. Để giải quyết đồng thời hai vấn đề này, việc tăng vốn chủ sở hữu là một huớng.
Tuy nhiên trong bối cảnh thị truờng vốn nội địa ảm đạm như hiện nay, việc tìm dòng vốn ngoại là điều hợp lý và cần thiết. Hiện ngân hàng nuớc ngoài cũng không mạnh dạn để đầu tư vào các ngân hàng Việt Nam nhưng họ cũng đang thăm dò việc này.
Theo ý kiến của nhiều tổ chức, quy định về tỷ lệ sở hữu hiện nay của NHNN đã không hấp dẫn các tổ chức nước ngoài và họ cho rằng tỷ lệ này có thể xem xét nâng lên mức 50% hoặc lên tới 65%, theo ông có là tỷ lệ hợp lý đối với tình hình Việt Nam hiện nay?
Trở lại quyết định của Ngân hàng Nhà nước là tăng bao nhiêu là hợp lý. Đây là một chủ đề gây nghi ngại. Có ý kiến cho rằng nếu cho phép ngân hàng nuớc ngoài chiếm phần vốn quá lớn trong cơ cấu vốn, các ngân hàng trong nuớc lúc đó sẽ theo đuờng lối của nuớc ngoài và có thể mất đi quyền kiểm soát ngân hàng đó.
Điều đó có thể là có cơ sở thành ra trong lúc này Ngân hàng nhà nuớc chưa muốn cho các ngân hàng nuớc ngoài có tỷ lệ khống chế tăng lên hơn mức 25%-30% cho vốn cổ đông nước ngoài.
Tuy nhiên để thu hút dòng vốn nuớc ngoài mạnh mẽ hơn thì có lẽ cũng cần cân nhắc cho phép họ nắm tỷ lệ sở hữu quá bán. Thực tế là các ngân hàng nuớc ngoài cũng đã vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có những “cuộc hôn” nhân trong quá khứ không đi đến “hạnh phúc”.
Việc cho các ngân hàng có tỷ lệ sở hữu khống chế sẽ giúp các ngân hàng nuớc ngoài cảm thấy an toàn khi bỏ vốn và chủ động trong điều hành và quản trị ngân hàng.
Theo quan điểm của tôi, ngân hàng Nhà nước nên xem xét cho các ngân hàng nuớc ngoài có tỷ lệ khống chế vào một thời điểm thích hợp. Còn hiện nay, có thể tỷ lệ nên nâng lên là 40%.
Và một lúc nào đó, NHNN nên cho tỷ lệ khống chế quá bán tức trên 50%. Thời điểm hợp lý đó là khi sức khoẻ của hệ thống ngân hàng cần tốt hơn, chất luợng của đội ngũ nhân sự ngân hàng, trình độ quản trị của cổ đông ngân hàng nâng cao.
Lúc đó, chúng ta sẽ không còn lo lắng sự lũng đoạn của ngân hàng nuớc ngoài đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Còn trong lúc này, khi quản trị công ty còn yếu kém, ngân hàng nước ngoài có thể khống chế, thậm chí lũng đoạn ngân hàng Việt Nam nếu có cổ phần chi phối.
Tỷ lệ hiện nay có thể là 40% và tuỳ thuộc vào quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tỷ lệ này có thể duy trì trong vòng 3 năm.
Hầu hết các ngân hàng yếu kém của Việt Nam hiện này đang rơi vào vấn đề khó khăn trong thanh khoản và nợ xấu tăng cao. Vậy đâu là sự thu hút các ngân hàng nuớc ngoài khi cân  nhắc đầu tư vào ngân hàng yếu kém của Việt Nam?
Chắc chắn rồi. Hiện có nhiều ngân hàng nuớc ngoài đang ngắm nghía các ngân hàng trong nuớc. Nhưng hai trở ngại lớn để họ chưa quyết định đầu tư vào ngân hàng Việt Nam là tính thanh khoản và nợ xấu.
Vấn đề nợ xấu là mối quan tâm vì ngay cả ngân hàng Việt Nam còn không kiểm soát được thì các ngân hàng nuớc ngoài giải quyết ra sao, nhất là trong môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế về tính minh bạch như Việt Nam. Và họ sẽ rơi vào cái bẫy của nợ xấu mà họ sẽ không rút ra đuợc.
Vấn đề thứ 2 là thanh khoản, các ngân hàng nuớc ngoài cũng hiểu là đồng vốn họ bỏ vào không giải quyết được tính thanh khoản.
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) là 9%. Do vậy, đồng vốn họ bỏ ra với tỷ lệ hiện nay không đóng góp bao nhiêu cho tính thanh khoản của ngân hàng mà họ đầu tư. Các ngân hàng phải đi vào thị truờng một và thị truờng hai để giải quyết tính thanh khoản.
Tôi cho rằng, thanh khoản chính là rào cản lớn để các ngân hàng nuớc ngoài tham gia đầu tư vào ngân hàng yếu kém của Việt Nam.

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Lách luật thu gom, mở sàn ảo: Vàng chưa thể yên

Trong bối cảnh “vàng thực” lộn xộn như hiện nay, khái niệm “vàng ảo” cụ thể  là “sàn vàng ảo” tiếp tục vẫn là vấn đề nóng trên thị trường tiền tệ ở ta. 
 
                         <<  Ngân hàng Habubank phát triển mạnh  >>

 
Trong tuần qua, vàng đã có một cơn 'sóng" giá khuấy động sự ổn định kéo dài mấy tháng qua. Cơn sốt giá đó được cho là sẽ sớm qua đi nhưng không vì thế mà thị trường vàng sớm có được sự bình ổn như kỳ vọng khi ban hành những quy định mới về kinh doanh vì thị trường vàng lại rộ lên cơn sốt đầu tư vàng ảo rồi đến chuyện lách luật để gom vàng của các ngân hàng.
 
Theo nhận định chung, sự kém hấp dẫn của đa số các kênh đầu tư và sự bất ổn của thị trường "vàng thật" đã khiến kinh doanh vàng qua tài khoản nở rộ trở lại, bất chấp tính pháp lý chưa có.
 
Trong khi đó, vào ngày 25/6, NHNN đã phải ban hành văn bản 3854 yêu cầu các tổ chức tín dụng chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng. Sau văn bản này, lãi suất huy động vàng đã giảm mạnh trở lại, xuống gần mức 0%; thậm chí có ngân hàng đã ngưng huy động vàng để chuyển sang hình thức giữ hộ có thu phí.
 
Tuy nhiên, gần đây, chuyện lãi suất huy động vàng lại được hâm nóng trở lại. Nổi bật nhất là "hiện tượng" ngân hàng DongA Bank dẫu là nhà băng đầu tiên ngừng huy động vàng trong những ngày đầu tháng 7 và áp dụng mức phí giữ hộ 0,05% trên giá trị vàng giữ hộ.
 
Tuy nhiên, hiện nay, NHTM này bất ngờ huy động vàng trở lại với lãi suất 1% cho tất cả các kỳ, nhưng phải đáo hạn trước 25/11. Cũng trong thời điểm này, ACB đã 2 lần thay đổi động thái về vàng. Nếu như vào đầu tháng 7/2012, ngân hàng này đã ngưng phát hành chứng chỉ huy động vàng có kỳ hạn, và cho biết những khoản đáo hạn sau 4/7 nhưng khách hàng không đến rút, ACB sẽ chuyển sang giữ hộ vàng và không trả lãi. Thì sang nửa cuối tháng 7/2012, họ lại thông báo phát hành chứng chỉ huy động vàng với các kỳ hạn 1, 2, 3 tháng, lãi suất 0,8% một năm và đảm bảo đáo hạn trước ngày 25/11 theo quy định.
 
Ngoài ra, các chứng chỉ vàng chưa đến ngày đáo hạn vẫn tiếp tục thực hiện những cam kết giữa ACB và khách hàng. Những khoản có ngày đến hạn sau ngày 25/11 nhưng khách hàng không đến rút, ACB sẽ chuyển sang giữ hộ vàng và không trả lãi.
 
Vì sao động thái huy động vàng lại rôm rả trở lại? Giới chuyên gia cho rằng động thái huy động vàng lãi suất cao của một số ngân hàng hiện nay còn có nhiều khả năng xuất phát từ một số mục đích sau: Một, chuyển vàng thành tiền đồng. Bởi ngay cả khi huy động vàng với lãi suất 1 hoặc 2% một năm, nếu giá ổn định, sẽ có lợi hơn so với huy động vốn bằng VND lãi suất 9%. Hai, tăng tài sản cũng như khả năng thanh khoản cho một số NHTM đang yếu về vấn đề này. Thậm chí, không loại trừ hành vi gom vàng bán kiếm lời của một nhóm NHTM được phép mở tài khoản nước ngoài, được chuyển đổi vàng thành tiền đồng.
 
Thực ra, việc các NHTM tăng hay giảm lãi suất huy động vàng là một hiện tượng không mới, nhất là trong bối cảnh thị trường vàng thế giới và nội địa còn nhiều bất ổn. Đặc biệt, nhiều qui định mới về quản lý thị trường này còn phải đợi bởi chưa có "hiệu lực" chính thức. Việc các tổ chức tín dụng xoay chuyển, thay đổi để làm sao có lợi nhất cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, sự thất thường sáng nắng, chiều mưa trên thị trường vàng là một thực tế không mong muốn của những người điều hành thị trường tiền tệ và cả đại đa số người tiêu dùng, cũng như DN kinh doanh vàng.
 
Trong bối cảnh "vàng thực" lộn xộn như vậy, khái niệm "vàng ảo" cụ thể là "sàn vàng ảo" tiếp tục vẫn là vấn đề nóng trên thị trường tiền tệ ở ta. Theo nhận định chung, sự kém hấp dẫn của đa số các kênh đầu tư và sự bất ổn của thị trường "vàng thật" đã khiến kinh doanh vàng qua tài khoản nở rộ trở lại, bất chấp tính pháp lý chưa có.
 
Các sàn vàng ngày càng thu hút được nhiều khách, nhất là các nhà đầu tư mới đến tìm hiểu, tham gia kinh doanh. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực này đang tuyển thêm nhân viên, chủ yếu là cho các phòng kinh doanh, mời gọi khách hàng mới. Sự hoạt động công khai, quy mô hoành tráng, lượng nhân viên trình độ cao rất lớn... đã khiến rất nhiều người, trong đó có cả những thành phần "nghiệp dư" ví như sinh viên tài chính đang thất nghiệp, tính tới chuyện mở tài khoản chơi thử.
 
Khá nhiều sàn giao dịch có địa chỉ hoạt động rõ ràng, quy mô lớn (tới hàng trăm nhân viên hoạt động trên cả ngàn mét vuông sàn ở các phố trung tâm tài chính), nhưng cũng không ít sàn chỉ có tên sàn, tên ông chủ, số điện thoại, email... và được chào mời trực tiếp bằng thư điện tử. Sự nở rộ và thậm chí hoạt động công khai trên quy mô lớn của các sàn giao dịch hàng hóa cho thấy rằng, đây rõ ràng là một kênh đầu tư. Nó hấp dẫn không ít các nhà đầu tư ở mọi tầng lớp bởi tính đầu cơ khá cao, nhiều vốn chơi cũng được và ít vốn chơi cũng được. Việc cấm và để dẹp bỏ tình trạng sàn vàng ảo vì thế có vẻ rất khó khăn.
 
Không ít ý kiến thắc mắc về tính pháp lý của hoạt động này. Đa số những người kinh doanh vàng qua tài khoản đều cho biết, thực chất đây không phải là hoạt động phi pháp mà là họ đang chờ quy chế quản lý từ các cơ quan chức năng. Và trước đây, Nhà nước cấm giao dịch vàng trong nước, còn giờ là chơi với sàn vàng quốc tế chẳng ai cấm, tội gì không tham gia để tìm kiếm cơ hội?