Theo Đề án Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của NHNN có đề xuất tăng “room” sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tín dụng yếu kém. Xoay quanh vấn đề này chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trí Hiếu – chuyên gia tài chính ngân hàng.
Ông Hiếu cho rằng, với các tổ chức tín dụng yếu kém hiện nay, việc tăng vốn chủ sở hữu là tối cần thiết. Hiện có hai vấn đề mà các tổ chức tín dụng kiểu này đang đối mặt đó là nợ xấu và tính thanh khoản. Để giải quyết đồng thời hai vấn đề này, việc tăng vốn chủ sở hữu là một huớng.
Tuy nhiên trong bối cảnh thị truờng vốn nội địa ảm đạm như hiện nay, việc tìm dòng vốn ngoại là điều hợp lý và cần thiết. Hiện ngân hàng nuớc ngoài cũng không mạnh dạn để đầu tư vào các ngân hàng Việt Nam nhưng họ cũng đang thăm dò việc này.
Theo ý kiến của nhiều tổ chức, quy định về tỷ lệ sở hữu hiện nay của NHNN đã không hấp dẫn các tổ chức nước ngoài và họ cho rằng tỷ lệ này có thể xem xét nâng lên mức 50% hoặc lên tới 65%, theo ông có là tỷ lệ hợp lý đối với tình hình Việt Nam hiện nay?
Trở lại quyết định của Ngân hàng Nhà nước là tăng bao nhiêu là hợp lý. Đây là một chủ đề gây nghi ngại. Có ý kiến cho rằng nếu cho phép ngân hàng nuớc ngoài chiếm phần vốn quá lớn trong cơ cấu vốn, các ngân hàng trong nuớc lúc đó sẽ theo đuờng lối của nuớc ngoài và có thể mất đi quyền kiểm soát ngân hàng đó.
Điều đó có thể là có cơ sở thành ra trong lúc này Ngân hàng nhà nuớc chưa muốn cho các ngân hàng nuớc ngoài có tỷ lệ khống chế tăng lên hơn mức 25%-30% cho vốn cổ đông nước ngoài.
Tuy nhiên để thu hút dòng vốn nuớc ngoài mạnh mẽ hơn thì có lẽ cũng cần cân nhắc cho phép họ nắm tỷ lệ sở hữu quá bán. Thực tế là các ngân hàng nuớc ngoài cũng đã vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có những “cuộc hôn” nhân trong quá khứ không đi đến “hạnh phúc”.
Việc cho các ngân hàng có tỷ lệ sở hữu khống chế sẽ giúp các ngân hàng nuớc ngoài cảm thấy an toàn khi bỏ vốn và chủ động trong điều hành và quản trị ngân hàng.
Theo quan điểm của tôi, ngân hàng Nhà nước nên xem xét cho các ngân hàng nuớc ngoài có tỷ lệ khống chế vào một thời điểm thích hợp. Còn hiện nay, có thể tỷ lệ nên nâng lên là 40%.
Và một lúc nào đó, NHNN nên cho tỷ lệ khống chế quá bán tức trên 50%. Thời điểm hợp lý đó là khi sức khoẻ của hệ thống ngân hàng cần tốt hơn, chất luợng của đội ngũ nhân sự ngân hàng, trình độ quản trị của cổ đông ngân hàng nâng cao.
Lúc đó, chúng ta sẽ không còn lo lắng sự lũng đoạn của ngân hàng nuớc ngoài đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam .
Còn trong lúc này, khi quản trị công ty còn yếu kém, ngân hàng nước ngoài có thể khống chế, thậm chí lũng đoạn ngân hàng Việt Nam nếu có cổ phần chi phối.
Tỷ lệ hiện nay có thể là 40% và tuỳ thuộc vào quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tỷ lệ này có thể duy trì trong vòng 3 năm.
Hầu hết các ngân hàng yếu kém của Việt Nam hiện này đang rơi vào vấn đề khó khăn trong thanh khoản và nợ xấu tăng cao. Vậy đâu là sự thu hút các ngân hàng nuớc ngoài khi cân nhắc đầu tư vào ngân hàng yếu kém của Việt Nam ?
Chắc chắn rồi. Hiện có nhiều ngân hàng nuớc ngoài đang ngắm nghía các ngân hàng trong nuớc. Nhưng hai trở ngại lớn để họ chưa quyết định đầu tư vào ngân hàng Việt Nam là tính thanh khoản và nợ xấu.
Vấn đề nợ xấu là mối quan tâm vì ngay cả ngân hàng Việt Nam còn không kiểm soát được thì các ngân hàng nuớc ngoài giải quyết ra sao, nhất là trong môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế về tính minh bạch như Việt Nam . Và họ sẽ rơi vào cái bẫy của nợ xấu mà họ sẽ không rút ra đuợc.
Vấn đề thứ 2 là thanh khoản, các ngân hàng nuớc ngoài cũng hiểu là đồng vốn họ bỏ vào không giải quyết được tính thanh khoản.
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) là 9%. Do vậy, đồng vốn họ bỏ ra với tỷ lệ hiện nay không đóng góp bao nhiêu cho tính thanh khoản của ngân hàng mà họ đầu tư. Các ngân hàng phải đi vào thị truờng một và thị truờng hai để giải quyết tính thanh khoản.
Tôi cho rằng, thanh khoản chính là rào cản lớn để các ngân hàng nuớc ngoài tham gia đầu tư vào ngân hàng yếu kém của Việt Nam .